Sau khi Bộ Công An khởi tố các vụ án liên quan đến trái phiếu
tại các công ty Tân Hoàng Minh và An Động (Vạn Thịnh Phát) , khiến hàng chục
nghìn nhà đầu tư mua trái phiếu của những doanh nghiệp này đang vô cùng lo lắng,
bất an về số tiền đầu tư của mình. Nhiều nhà đầu tư sau khi xảy ra chuyện mới vỡ
lẽ là mình mua trái phiếu, mà trước đó họ còn nhầm tưởng đấy là sản phảm tiết
kiệm của ngân hàng.
Căn nguyên sự kiện này là do đâu, nó ảnh hưởng thế nào đến
thị trường tài chính, những người mua trái phiếu liệu có thu hồi lại được tiền
hay không?
Trái phiếu là gì?
Câu hỏi trái phiếu là gì nghe tưởng chừng đơn giản nhưng hóa
ra với nhiều người, đặc biệt là người trung niên, có tuổi và không hiểu về tài
chính lại hoàn toàn mù mờ và xa lạ. Hiểu một cách nôm na thì trái phiếu là 1
khoản nợ, trong đó bên đi vay là một tổ chức ( gọi là tổ chức phát hành) và bên
cho vay gọi là trái chủ, tức người sở hữu trái phiếu.
Những trái phiếu người dân mua hiện nay, gần như tất cả là
trái phiếu doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này phát hành những gói trái phiếu
(khoản nợ) rồi chia nhỏ khoản nợ đó ra với đơn vị là 1 trái phiếu (thường 1
trái phiếu có mệnh giá là 100,000 đồng). Sau đó họ bán (tức là đi vay người mua
trái phiếu) cho cho hàng nghìn thậm chí hàng chục nghìn người mua cá nhân trên
thị trường thông qua các kênh phân phối tài chính (thường là các ngân hàng và
các công ty chứng khoán)
Cũng tương tự như các khoản vay, có khoản vay là tín chấp,
có khoản vay là thế chấp (bằng tài sản), có khoản vay được bảo lãnh thanh
toán……. Các trái phiếu cũng có nhiều loại như trái phiếu có tài sản đảm bảo (có
tài sản để thế chấp cho khoản vay), trái phiếu được bảo lãnh thanh toán (được một
bên thứ 3 như ngân hàng, tổ chức tài chính…. đứng ra bảo lãnh thanh toán gốc và
lãi) và loại trái phiếu không có tài sản đảm bảo, không bảo lãnh thanh toán,
không kèm chứng quyền hoặc quyền lợi khác ….. loại này thường được gọi là trái
“trơn” có tính chất giống với vay tín chấp.
Quy trình phát hành
và phân phối trái phiếu như thế nào?
Để có một đợt phát hành trái phiếu thành công (vay nợ thành
công) thông thường cần sự tham gia của các tổ chức tài chính trung gian (ngân
hàng, công ty chứng khoán).
Các tổ chức tài chính (TCTC) thường đóng nhiều vai trò, từ
tư vấn, đến đại lý lưu ký và phân phối bán trái phiếu.
Với vai trò tư vấn:
các TCTC thường tư vấn cho các doanh nghiệp phát hành phương án tài chính,
phương án phát hành, các hồ sơ và thủ tục cần thiết để được ủy ban chứng khoán
và các cơ quan chức năng phê duyệt.
Với vai tròa đại lý lưu ký:
các TCTC thay mặt doanh nghiệp phát hành trái phiếu quản lý việc mua, bán, sở hữu
của nhà đầu tư đối với trái phiếu (trái chủ)
Với vai trò phân phối:
Các TCTC trực tiếp đi bán trái phiếu cho nhà đầu tư. Với uy tín của mình các
TCTC dễ dàng thuyết phục các nhà đầu tư mua trái phiếu hơn nhiều so với các
doanh nghiệp phát hành trái phiếu tự đi phân phối. Đặc biệt là các ngân hàng, vốn
có sẵn tập khách hàng gửi tiết kiệm đông đảo, rất dễ dàng chào bán các sản phẩm
trái phiếu.
Tuy vậy, việc phân phối trái phiếu không chỉ đơn giản vậy,
vì các trái phiếu thường có kỳ hạn dài (thường là vài năm, thậm chí cả chục
năm) trong khi những nhà đầu tư mua trái phiếu thường chỉ muốn nắm giữ thời
gian ngắn, và thực tế đa số những người gửi tiết kiệm tại ngân hàng được mời
chào mua trái phiếu đều nghĩ nó là sản
phẩm thay thế và linh hoạt hơn so với gửi tiết kiệm, và thường thời hạn nắm giữ
chỉ vài tháng đến dưới 1 năm. Chính vì vậy, các TCTC làm đại lý sẽ kiêm luôn việc
băm nhỏ kỳ hạn trái phiếu ra để bán cho khách hàng, thay vì bán đứt trái phiếu
cho khách hàng (bán outright) thì các TCTC sẽ chia thành các kỳ hạn từ 1 đến 12
tháng, dưới hình thức hợp đồng mua lại chính trái phiếu mà TCTC đã bán cho
khách hàng.
Với quy trình như trên, có thể thấy các TCTC trung gian như
ngân hàng, công ty chứng khoán đóng vai trò vô cùng quan trọng, có thể nói là
vai trò quyết định sự thành công của các đợt phát hành trái phiếu.
Đổ vỡ và mất thanh khoản!
Trong giai đoạn 207-2020, thị trường trái phiếu doanh nghiệp
bùng nổ, các chủ đầu tư, các doanh nghiệp BĐS khi khó khăn trong việc tiếp cận
vốn ngân hàng đã tìm đến trái phiếu như một cứu cánh về nhu cầu vốn. Với sự
giúp sức từ các công ty chứng khoán, ngân hàng, trái phiếu doanh nghiệp (mà phần
lớn trong số này là các doanh nghiệp BĐS) được phân phối ồ ạt đến tay người dân
(đa số đều không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có hiểu biết về
các sản phẩm tài chính). Thậm chí rất nhiều trái phiếu là trái “trơn” như trái
phiếu An Đông, vẫn được hàng chục nghìn người mua với khối lượng lên đến hàng
chục nghìn tỷ đồng. Hậu quả của sử bùng nổ và dễ dãi này là các doanh nghiệp sử
dụng tiền phát hành trái phiếu vô tội vạ, dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng, khi
các cơ quan chức năng khởi tố, bắt giữ những tổ chức, cá nhân liên quan, thì những
nhà đầu tư trái phiếu mắc kẹt, những TCTC làm đại lý phân phối từ chối mua lại
còn doanh nghiệp phát hành thì không biết khi nào trả được tiền cho trái chủ.
Trách nhiệm cho sự đổ vỡ hiện nay không thuộc riêng đối tượng
nào, mà tất cả những chủ thể tham gia thị trường đều ít nhiều là nguyên nhân
gây ra. Tuy nhiên mất mát lớn nhất và là đối tượng cần được quan tâm giúp đỡ nhất
là những người đã mua những trái phiếu này.
Đối với cơ quan quản
lý nhà nước: đã không tạo được một khung pháp lý chặt chẽ và hợp lý, nhằm
phòng ngừa những rủi ro cho thị trường, với sự dễ dãi trong việc phát hành và
phân phối trái phiếu, nhiều người mua trái phiếu còn không hiểu mình đang mua
cái gì, vẫn nghĩ nó là sản phẩm tiết kiệm của ngân hàng. Với một sản phẩm tài
chính đặc thù như trái phiếu, đáng lẽ nó phải có những quy định chặt chẽ từ việc
phát hành, phân phối, công bố thông tin và quản lý giao dịch tập trung. Nhưng
cơ quan chức năng dường như đã bị động, liên tục có những động thái “chạy theo”
thị trường khi sửa đổi các thông tư, nghị định hướng dẫn hoạt động trên thị trường
trái phiếu doanh nghiệp.
Đối với các tổ chức
phát hành: lợi dụng sự dễ dàng của quy định, của thị trường, đã phát hành
và chào bán trái phiếu một cách vô tội vạ, vượt qua sự an toàn tài chính của
doanh nghiệp, đồng thời sử dụng vốn thiếu trách nhiệm và sai phạm và là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến sự mất thanh khoản của trái phiếu.
Đối với các tổ chức
tài chính: vì chạy theo lợi nhuận, các công ty chứng khoán và ngân hàng đã
phớt lờ những rủi ro, không cung cấp trung thực thông tin cho khách hàng, thậm
chí nhiều trường hợp chèo kéo, cố tình mập mờ đánh tráo khái niệm trái phiếu và
sản phẩm tiết kiệm. Khiến nhiều nhà đầu tư hiểu nhầm về sản phẩm.
Đối với nhà đầu tư và
người mua trái phiếu: nhiều người thiếu hiểu biết, cả tin nhân viên ngân
hàng, công ty chứng khoán tư vấn, quá dễ dãi với đồng tiền đầu tư của mình mà
ko tìm hiểu kỹ càng cẩn thận. Một lần nữa cho thấy, để tham gia thị trường tài
chính cần có kiến thức và kinh nghiệm, không thể chỉ nhắm mắt nghe tư vấn để đầu
tư. Cần tìm hiểu kỹ về trái phiếu, xem tổ chức phát hành có uy tín không, dòng
tiền kinh doanh có tốt không, trái phiếu có tài sản đảm bảo tốt không, phương
án sử dụng tiền thu được từ phát hành trái phiếu có hợp lý không ……
Trái phiếu vỡ nợ thì
thu hồi tiền thế nào?
Cũng giống như các khoản vay, khi doanh nghiệp không thể trả
được nợ thì người ta sẽ tìm cách thu hồi tiền đã cho vay, tuy nhiên tùy mức độ
và tính chất của khoản vay mà có thể đòi được tiền hay không.
Như đã nói ở trên, việc thu hồi tiền cho trái chủ có thể
chia làm 3 trường hợp như sau:
-
Trái phiếu có đảm bảo thanh toán thì tổ chức đứng
ra đảm bảo sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả gốc và lãi cho trái chủ. Tuy nhiên số
trái phiếu có đảm bảo thanh toán thường rất ít.
-
Trái phiếu có tài sản đảm bảo: việc thanh lý tài
sản để trả tiền cho trái chủ sẽ được thực hiện, tuy nhiên đây là quá trình pháp
lý rất dài và phức tạp, nhiều trường hợp
doanh nghiệp chây ì không bàn giao tài sản để cơ quan chức năng làm thủ tục
phát mại, hoặc khi phát mại giá trị tài sản bị sụt giảm không đủ số tiền trái
phiếu đã phát hành….
-
Trái phiếu không có tài sản đảm bảo, không kèm
chứng quyền, không được bảo lãnh hay còn gọi là “trái trơn” thì gần như nhà đầu
tư trái phiếu không còn cơ hội đòi lại số tiền của mình. Vì khi thu hồi tài sản
của doanh nghiệp thì thường các tài sản này đã được gán cho những nghĩa vụ nợ
khác của doanh nghiệp rồi.
Nhận xét
Đăng nhận xét